01 March 1998

Phương Trời Nam


Phương Trời Nam

SBS Radio
Diễn Đàn Sinh Viên
01 Tháng Ba, 1998

Kính thưa quý thính giả
Các bạn sinh viên học sinh thân mến

Trại hè liên kết do Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Liên Bang Úc Châu tổ chức tại Wollongong vào các ngày 13 đến 15 Tháng Hai, năm 1998, cách đây hai tuần. Tôi chắc là một số bạn đang nghe chương trình này có tham dự trại hè đó, vui buồn xin giữ làm kỷ niệm như một âm vang của thời đi học. Nhân dịp này, một CD nhạc với tựa đề Phương Trời Nam do Tổng Hội thực hiện đã được ra mắt. Bài viết sau đây ghi lại những cảm nghĩ của một thính giả khi nghe đĩa nhạc này.

Một bạn nào đó viết lời giới thiệu trên bìa của đĩa nhạc như sau: “...Tuy không chứa đựng những ca khúc thành danh, trình bày bằng những giọng ca thời thượng, nhưng Phương Trời Nam gói ghém tất cả những ưu tư khoắc khoải, những tâm sự của giới trẻ trong từng ca khúc mới do chính các bạn sinh viên từ nhiều nơi trên Úc Châu sáng tác, thực hiện và trình bày...” Tôi nghĩ bạn đó đã nói đúng sự thật với một vẻ khiêm tốn đáng mến, và cần có ở những người trẻ.

Âm nhạc, cũng như mọi hình thức nghệ thuật khác, mỗi bài hát, mỗi tác phẩm, nếu được viết, được sáng tạo với một tâm hồn tự do thì đều có nét đẹp riêng của nó. Không cứ gì phải là những ca khúc nổi danh mới gọi là hay, hoặc phải là những giọng ca nổi tiếng mới gọi là tuyệt hảo. Có nhiều người trong chúng ta khi đi dự một buổi hòa nhạc ở đâu đó, nghe giọng hát của một danh ca trên một sân khấu rực rỡ đèn màu, họ vẫn không thấy xúc động; nhưng khi bất chợt đến nhà người bạn, cũng với ca khúc đó, anh hay cô bạn ôm đàn say sưa hát, thì trong lòng mình bỗng nghe dạt dào rung cảm. Phương Trời Nam là tập hợp những tiếng hát như vậy, tiếng hát tâm tình của tuổi trẻ, tiếng hát say sưa của bạn bè chúng ta.

Hai mươi năm trước Nhất Hạnh đã viết trong Bông Hồng Cài Áo: “...không có tình thương, hiếu chỉ là giả tạo, khô khan, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là có đủ hết rồi...” Đó là một lời khuyên sâu sắc. Tình thương nuôi ta lớn, chỉ đường cho ta đi trong đời. Trong cuộn băng video Paris by Night 40, chủ đề Mẹ, ca khúc cuối cùng mang tên Mẹ năm 2000, do Phạm Duy viết và Khánh Ly trình bày; thành thật, tôi không thấy điều gì mới trong giai điệu bản nhạc, và lời ca thì tôi không hiểu; riêng tôi, tôi không thấy có gì hay trong ca khúc ấy.

Bông Hồng Nào Cho Mẹ, nhạc Nghi Tạ, lời Ngô Minh Khiết, bài hát đầu tiên trong đĩa Phương Trời Nam, đối với tôi gần gũi hơn, đó là: “...Con rong chơi suốt ngày, đi tranh đua với với đời... Con đi xa vắng nhà, đi đêm khuya không về, những cơn lo ngóng đợi bên mẹ hoài thôi...” Ngày con còn bé, nhọc nhằn đời mẹ cưu mang. Ngày con đã lớn, vẫn hoài đèn sách, làm thơ tình vu vơ, và vẫn còn đem đến cho mẹ những ưu phiền, thay vì những bông hồng dâng mẹ. Bạn tôi đã nghĩ, viết và hát với tất cả sự yêu thương gởi đến cho một người mẹ. Tôi chắc như thế, bỡi tôi tìm thấy tôi, hình ảnh của mẹ tôi trong bài hát ấy. Tôi biết chắc nhiều bạn tôi cũng thế, và tôi sẽ không ngần ngại nói rằng tôi thích Bông Hồng Nào Cho Mẹ hơn là Mẹ năm 2000 đã nói ở trên. Bài Mẹ Việt Nam của Đức Thảo cũng khá hay mà tôi tôi đã trình bày cũng trong chương trình này cách đây không lâu.

Tôi mong bạn tôi sẽ tiếp tục sáng tác với một tâm hồn tự do và yêu thương như thế... Và tôi biết có nhiều bạn bè khác của tôi nghe một bản nhạc, thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật bằng chính tâm hồn mình, bằng đôi tai, đôi mắt của chính mình mà không phải qua lăng kính của người khác, hay bọt sóng của dư luận đương thời.

Mẹ em đâu?
-Ngủ ngoài biển cả
Em của em đâu?
-Sóng cuốn đi rồi
Chị của em đâu?
Nghe chị thét trên mui
Ba em đâu?
Em lắc đầu không nói
...
Kẻ sống sót trong sáu tuần trôi nổi
Đã cắt thịt mình lấy máu thắm môi em
...
Mai em lớn dù phương nào cách biệt
Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt Nam
Máu thương yêu đã chảy bốn nghìn năm
Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại
...
Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu

Đó là những trích đoạn trong bài thơ Em bé Việt Nam và viên sỏi của Trần Trung Đạo, kể chuyện một em bé gái Việt Nam, chừng năm, sáu tuổi, đến trại tỵ nạn một mình, cứ chiều chiều ngóng ra bờ biển, đặt những viên sỏi, giả làm kẹo, để dành cho những người thân sẽ vĩnh viễn không bao giờ trở về, sau một chuyến đi. Bài thứ hai trong Phương Trời Nam, Nhặt Xác Biển Đông, nhạc và lời của Trần Thượng Chí, được hát với một giọng ca rất buồn, nói lên một tâm trạng tương tự: Tôi xin được về nhặt xác biển đông...nhặt xác em trong trại tỵ nạn, nhặt xác anh thiêu rụi muộn màng, thiêu cả lòng người...Bi kịch tỵ nạn, tuổi trẻ Việt Nam trải qua và chứng kiến, một lần nữa xin được nhắc đến.

Tôi không cho rằng bài hát đó cố tình bi thảm hóa một sự kiện, như có một số ý kiến như thế. Nếu bạn thấy có những con người như những thây ma, vì đói khát, đi lên từ bờ biển. Nếu bạn thấy những giọt máu bắn tung tóe của những người mổ bụng tự tử, hay những thi thể cháy đen thui vì tự thiêu, khi bị từ chối tư cách tỵ nạn một cách oan ức; bạn sẽ thấy bài hát đó viết với một nỗi khổ nhọc và thông cảm, mà không có chút cường điệu nào.

Hôm đi dự trại hè, các bạn bàn thảo sôi nổi về đề tài tuổi trẻ và chính trị, có nhiều ý kiến rất hay và tôi đã nghĩ rằng nếu bạn không thích bị quấy rầy bỡi những vấn đề lý thuyết thì hãy tìm hiểu những gì xảy ra nơi bạn đang sống, tìm hiểu những cuộc đời chung quanh bạn. Cho dẫu không muốn “nắm giữ sự thật làm vũ khí ”như thánh Gandhi đã từng nói; thì từ sự hiểu biết đến thông cảm và thương yêu cũng là một thái độ chính trị tích cực rồi. Bạn sẽ thông cảm với những người thuộc thế hệ trước chúng ta, có những người không xứng đáng với sự kính trọng của chúng ta; nhưng cũng có những người đáng cho chúng ta ngã mũ kính chào về tư cách và tài năng của họ, và:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Như bài hát Bà Huyện Thanh Quan trong đĩa CD, và Phương Trời Nam đang làm cái công việc đóng góp một phần bé nhỏ của nó trong công việc nói lên cái sự thật mà phần lớn chúng ta đã trải qua đó.

Tuy vậy, Phương Trời Nam không hoàn toàn là những ca khúc nói về nỗi khổ đau của quá khứ. Bạn sẽ tìm thấy ở đó một Thu Melbourne, gió miên man thổi về Nam Cực, để lại nỗi trống vắng cô đơn cho những gả sinh viên ngơ ngẩn nhìn mây bay, khi xa người yêu, nhớ kỷ niệm một thời tim ta vô tình trải cỏ em đi, một Đợi Em Tan Trường, một Thà của Hồ Trung Lễ, và giọng ca rất ngọt của Nghiêm Lệ:

Thà là hạt mưa bay, ướt tóc em một ngày
Còn hơn anh đứng đợi, cuối đường chiều nắng phai
Thà là chiếc lá thu, lênh đênh trên mặt hồ
Còn hơn em hứa hẹn, gặp nhau cỏ xanh mồ...

Với Phương Trời Nam, bạn có một Nỗi Nhớ những lần điện thoại, không vơi nỗi nhớ theo lời, nỗi nhớ làm mưa những ngày xa cách của Phan Huy Lộc và Lam Điền, một Gọi Bóng Mặt Trời của Đức Thảo, Thư Hùng và Quốc Thái, rền rỉ giai điệu buồn như những bài Không Tên, xin giữ nụ cười cho nhau để bước em đi sỏi đá cũng ngậm ngùi.

Lối đi trên sân trường trở thành lối mộng của biết bao người trẻ, cũng là tựa đề của một bản song ca dìu dặt: Người yêu anh có nhớ, nhớ từng chiều mây trắng bay. Người yêu anh có nhớ, nhớ con đường tình đầu tiên...buồn thâm trầm, nhưng không có vẻ đẫm lệ của một thời chinh chiến: Trả lại em yêu, khung trời đại học, với nước mắt lóng lánh trong đôi mắt của cô sinh viên buồn trong cái hiu hiu của ngọn đèn cư xá. Cô sinh viên có người yêu ngoài mặt trận đang chợt nghĩ tới một điều cô sợ không dám nghĩ. Tất cả những tình khúc đó nói lên sự khác biệt của những thế hệ Việt Nam, và cũng chính nó làm cho những con người này thêm gần gũi, thông cảm cho nhau hơn. Tình khúc Việt Nam đã từ lâu mang hình hài lịch sử.

Đại dương bao la luôn là một đề tài hay của các nhạc sĩ Việt Nam. Trong đĩa nhạc này bạn lại gặp lại đề tài biển cả, những cánh chim hải âu, em và một cuộc tình. Nhiều thứ quá mà sao em vẫn cảm thấy bơ vơ, bỡi tâm hồn em chỉ có kỷ niệm đầy ắp những yêu thương. Đó là tình khúc Biển và Tôi, nhạc Nghi Tạ, lời Nghiêm Lệ. Tôi tin là cặp bài trùng này sẽ còn gây nhiều ngạc nhiên cho chúng ta.

Rời khu vực trại, tôi lang thang một đêm ở Sydney, đêm đó đúng là đêm lễ tình nhân – Valentine, ngước nhìn trời đêm ở cảng Tình Nhân (Darling Habour), thấp thoáng một vài cặp tình nhân đi qua trước mặt với nhiều những cành hồng trên tay, nhớ đến bài hát Valentine trong đĩa nhạc, tôi mỉm cười một mình. Tác giả bài hát là bạn tôi, có lẽ vì đường tình long đong quá nên nó hay viết tình ca. Còn tôi, có lẽ “xui” cho nó là bạn tôi, nên cảm giác gặp gỡ  thân mật vui đùa hằng ngày có thể ảnh hưởng đến cái nhìn của tôi trong đối một số vấn đề mà nó trân trọng.

Giáo sư Hồ Đình Chữ đã viết: “Theo nghĩa từ nguyên, Việt có nghĩa là vượt qua, phát dương lên, luôn luôn chiến đấu để thắng trở ngại, vượt đi xa. Ý nghĩa của từ Việt đã hàm dưỡng đầy đủ đặc tính của dân tộc ta vậy”. Bạn sẽ tìm thấy cái ý đó trong điệp khúc trầm hùng của bài hợp ca Phương Trời Nam kết thúc đĩa nhạc, không phải: Ta về cúi mái đầu sương điểm, nghe nặng từ tâm lượng đất trời. Mà như là: Ta về vươn sức trai Phù Đổng, cùng dựng lại quê hương để tiếng ca chúng ta bay vút trên mọi nẻo ruộng đồng. Xin chia sẻ với thính giả và các bạn cảm tình trân trọng và nồng hậu của tôi đối với đĩa nhạc Phương Trời Nam.

Thân ái chào các bạn
Kính chào quý thính giả.

Nguyên Đại
Đại Học Melbourne (Uni. of Melb.)
Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Việt Nam Úc Châu




07 December 1997

Nhạc Phan Văn Hưng - Nam Dao

SBS Radio
Diễn Đàn Sinh Viên
7/12/1997

Thưa quý thính giả 
Các bạn học sinh, sinh viên thân mến

Nhiều người Việt Nam đi tỵ nạn đã nghe qua những lời ca:
Ai trở về xứ Việt, nhắn giùm ta người ấy ở trong tù, nghe đâu đây vang giọng hờn rên xiết, dài lắm không đằng đẳng mấy mùa thu...

Đó là một trong những ca khúc nổi tiếng của Phan Văn Hưng và Nam Dao (PVH-ND) xuất hiện từ những năm đầu thập niên 80. Cũng không ít người đã viết về anh chị, chẳng hạn chị Đỗ Quyên:
Có thể nói Phan Văn Hưng và Nam Dao là cặp bài trùng trong nền âm nhạc sáng tác Việt Nam hiện đại. Phan Văn Hưng làm chồng và viết nhạc. Nam Dao làm vợ và viết lời, sự cộng tác chặt chẻ trải dài gần 100 ca khúc suốt 20 năm trời.

Và chị Quyên trong lời tựa cho đĩa nhạc Có phải em chờ mùa xuân đã kết luận:
Trong nhạc của PVH-ND có một sự hiền dịu, nhẹ nhàng trong sáng từ tốn làm sao!...Nhạc PVH-ND mang nhiều suy tư, u uẩn nhưng vẫn trong sáng và đầy tình người. Nghe nhạc PVH-ND cần nghe như đọc sách, để ý từng chữ, lắng nghe từng lời để khám phá thông điệp gói ghém bên trong...Và nếu phải gán cho Hưng một nhãn hiệu thì tôi sẽ gọi Hưng là người nhạc sĩ Nhân Bản hay người nhạc sĩ của Tình Người.

Các bạn thân mến,
Tôi nghĩ những nhận xét trên là khá chính xác về tác phẩm và con người của PVH-ND. Trong bài này, tôi chỉ mong chia sẻ cùng quý thính giả và các bạn một vài suy nghĩ, cảm nghĩ của một sinh viên sau khi nghe anh chị PVH-ND nói chuyện và trình bày một số ca khúc của họ trong đêm sinh hoạt giới trẻ 29/11/1997 cuối tuần qua.

Nhà văn Phan Nhật Nam kể lại rằng, trong một cuộc phỏng vấn với một cán bộ cộng sản, người này hỏi ông sẽ làm gì khi ra nước ngoài. Nhà văn đáp, tôi sẽ viết về nỗi khổ đau. Tôi nghĩ có một điểm chung giữa những nghệ sĩ như Phan Nhật Nam, PVH-ND, Nguyễn Chí Thiện cũng như một số nhà văn, nhà thơ tiêu biểu khác. Họ đều viết về nỗi khổ đau của dân Việt. Bỡi họ đã trải qua những kinh nghiệm đau thương đó, hay cảm nhận sâu sâu sắc những bất hạnh của những người thân, những đồng bào của họ. Nhạc PVH-ND vì vậy đã đem khán thính giả trở về với những kinh nghiệm đau thương mà họ đã trải qua, do vậy nó làm xúc động lòng người, động đến những tầng sâu của lương tri với những lời lẽ, và nốt nhạc dung dị, nhưng được viết với tấm lòng trân trọng và yêu thương.

Bên kia bờ đại dương, không phải chỉ những khách sạn tân kỳ mới xây cất, trong một sự đổi mới nửa vời rừng rú. Ở đó còn những nghịch cảnh, và bài hát Hai Mươi Năm đã nói về những thực tại xúc động ấy:
Hai mươi năm, nhiều kẻ gian trong làng xóm. Người hiền khô mang gông cùm. Kẻ mộng du lên bạo chúa. Người ngồi khóc trong sân chùa...Hai mươi năm, một thằng bé đứng trần truồng nhìn người qua buôn và bán, kẻ gian ác đi nghênh ngang...Người cụt chân trên hè phố, kẻ quyền uy trong căn nhà, người tù tội trước quan tòa chỉ gục đầu giấc mơ xa...

Đó có phải là quá khứ không? Không! Bỡi lửa dậy Thái Bình là một bằng chứng, bỡi gông cùm mà giáo sư Đoàn Viết Hoạt đang gánh chịu là một điển hình, bỡi những đàn áp tôn giáo mà gần đây nhà cầm quyền cộng sản đã làm là những dấu tích không thể chối cải, bỡi những tắc trách của những người có trách nhiệm trong chính quyền cộng sản đã làm trầm trọng thêm những thảm kịch thương tâm cho hàng ngàn gia đình khốn khó, nạn nhân trong cơn bão Linda vừa qua.

PVH-ND vẫn còn giữ được nhiệt tình của những năm tháng sinh viên để hát. Các bạn trẻ có thể tự hào là trong hàng ngũ của các bạn đã có những con người, những tấm gương sáng như Trần Văn Bá, PVH-ND.
Người còn yêu hay còn nhớ, phải vượt qua những bến bờ, phải tìm sâu trong hồn nước những thôi thúc đang mong chờ! Người còn tha thiết núi sông, thì sẽ thấy cơn mưa nguồn

Đâu là bến bờ phải vượt qua? Cơn mưa nguồn chừng nào trở lại trên quê hương máu đổ tủi buồn của chúng ta? Con đường dấu quê hương có phải tít tắp mù xa không? Bến bờ ấy, cơn mưa ấy, con đường ấy ở trong tim chúng ta. Những trái tim đập rộn ràng biết xót thương. Những tấm lòng giàu lòng trắc ẩn đối với những người bất hạnh. Người lặn lội vẫn đi tìm, sẽ thấy đường dấu quê hương!

Nhạc PVH-ND mặc dù rưng rưng nỗi khổ đau khi viết về cái chết của Thằng Bé Tát Dầu trước họng súng AK, về sự ra đi như một thiên thần của bé Thảo trong sự thiếu thốn bất hạnh trong Bài Ca Cho Bé Thảo. PVH-ND nói về những khổ nạn, phản đối cái ác, cái bất nhân, nhưng không kêu gọi bạo động.

Trong lời tựa của đĩa nhạc 20 năm có đoạn: Và khi đứng lên đòi hỏi thì qua những ca khúc của mình, PVH-ND chỉ đòi quyền được yêu thương. Chị Đỗ Quyên cũng có một đoạn rất hay khi bàn về đặc điểm này trong nhạc PVH-ND, chị viết:
Trời ơi, bài học Việt Nam, bài học của chúng ta hôm nay không phải là thắng một chủ nghĩa, thắng một bạo quyền chính trị. Xa hơn nữa, ta phải thắng chính ta: thắng những lực hận thù phân chia dân tộc, thắng sự ngu muội đen tối của chính chúng ta, không để cho chủ nghĩa ngôn từ bịt mắt, quỷ đưa lối ma dẫn đường khiến chúng ta nhân danh con người mà giết con người.

Tôi chú ý đến một trong những bà hát anh Hưng trình bày đêm ấy, đó là bài Em Bé Sáu Tuổi mà anh đã phổ thơ của Hoàng Cầm, nhà thơ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, kể chuyện về một chị cán bộ cộng sản khi nghe tiếng khóc của một em bé sáu tuổi, con của một gia đình được quy cho là thuộc giai cấp địa chủ mà chị có nhiệm vụ hướng dẫn đấu tố. Tiếng khóc của em bé vô tội đã đem chị về cái quá khứ côi cút bất hạnh của chị. Chị đã cho em bé ăn cơm, nhưng rồi nghĩ tới lập trường giai cấp, cái mà chị đã được Đảng dạy. Chị bỗng lùi lại, cố tìm dấu vết thù địch, nhưng không, chị chỉ thấy ở đó một cuộc đời bất hạnh như chị ngày xưa, chỉ thấy ở đó có một đứa bé thơ vô tội...

Tôi nghĩ những người như chị chính là những người cần được kêu gọi để trở về nẻo chính, và biết mình đã bị lừa lọc để chiến đấu, để hy sinh xương máu cho quyền lợi của một số quan chức tư bản đỏ. Để biết mình là một tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa cộng sản mà thiên đường chỉ có trong hứa hẹn, quá khứ là chiến tranh, là huynh đệ tương tàn, và hiện tại chỉ có bất công, và khốn khổ. Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự đã đứng trong hàng ngũ của những người như chị năm xưa. Họ đã thức tỉnh, và khi họ thức tỉnh, họ lập tức bị Đảng cộng sản tấn công. Đón nhận Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, chúng ta gởi đi một thông điệp quan trọng rằng tất cả những ai còn chút tình người đều đứng về phía chúng ta. Hàng ngũ chúng ta rồi sẽ trùng trùng điệp điệp vì đó là hàng ngũ của những con người.

Những người như chị phải đi đòi ở Đảng cái quyền được yêu thương, quyền được sống như một con người, có trái tim còn biết rung động trước những nỗi đau khổ của đồng loại, được bày tỏ tình yêu, tình người mà không sợ bị Đảng trừng trị vì mất lập trường giai cấp. Tôi nghĩ PVH đã viết những thông điệp đó gởi đến những người như chị trong bài Đòi Quyền Yêu Thương, bỡi trong số đó có những người là bạn bè của của anh, tất cả đều là nhân chứng cho một giai đoạn tối tăm của dân tộc, đã đưa đến kết cục :Thằng ngụy gần điên nằm tù mục xương, còn thằng đảng viên sống trong ân hận.

Chúng ta phải nhận diện đâu là những kẻ bất nhân, đâu là những nạn nhân, anh em bạn bè của chúng ta. Tình yêu của chúng ta đối với những người anh em sẽ làm chúng ta tăng thêm sức mạnh, và cầu mong nó sẽ làm cho những kẻ bất nhân dừng tay, quay đầu. Nhận diện bạn bè, biết tha thứ cho những người đã bị thứ chủ nghĩa phi nhân mê hoặc, lợi dụng, biết cho quên cũng là một hình thức nêu cao chính nghĩa của chúng ta, điều đó chứng minh cho lý tưởng nhân bản mà chúng ta theo đuổi.

Tôi thật sự mong nhiều bạn bè của tôi được nghe hiểu về PVH-ND cũng như những điều mà anh chị viết về quê hương của chúng ta. Tôi tin rằng dẫu thế nào đi nữa thì cái vô lý, cái bất nhân, cái ác sẽ không thể tồn tại lâu dài được. Đảng cộng sản Việt Nam đang đi ngược lại quyền lợi của đại đa số người dân Việt. Những ngọn lửa như Thái Bình sẽ nổi lên, nhiều hơn, mạnh hơn nữa ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam , đó là điều chắc chắn sẽ xảy ra.

Kính chào quý thính giả
Thân ái chào các bạn

Nguyên Đại
Melbourne,
Tháng 12, 1997

05 October 1997

Thơ Như Tình Nhân

Trước đây trong một buổi nói chuyện về thơ với sinh viên học sinh ở trường Đại Học Kỷ Thuật Victoria (Victoria Institute of Technology) Melbourne, Úc Châu, tác giả Nguyễn Hưng Quốc khuyên những người trẻ là : “Muốn nổi tiếng đừng nên làm thơ tình”. Theo thầy Quốc thì lý do đơn giản là xưa nay, người ta làm thơ tình quá nhiều, đã có nhiều bài hay lắm rồi; cho nên nếu mình làm thơ tình thì khó nổi tiếng. Tôi có đi dự buổi nói chuyện hôm đó, vì tôi thích thơ và thích nghe nói chuyện về thơ. Trong bài viết này, tôi mong được trình bày một vài quan niệm về thơ, như một chia sẻ cùng bạn bè tôi, đặc biệt là với những bạn yêu thơ.

Tôi nhìn vấn đề trên hơi khác với thầy Quốc một chút. Theo tôi, làm thơ là một thú vui tao nhã, người làm thơ dùng ngôn ngữ để diễn tả tình cảm của mình, những tâm sự, vui buồn trong cuộc sống, hay cảm nhận của họ có được từ những câu chuyện của họ với bạn bè, với những người chung quanh... Chung quy, thơ là tiếng vọng của đời sống, giống như bức tranh đối với người họa sĩ, bài hát đối với người nhạc sĩ, ca sĩ. Diễn tả, thể hiện là công việc của người làm nghệ thuật. Chiêm nghiệm, công nhận là thái độ của người yêu nghệ thuật. Bày tỏ là một nhu cầu của người nghệ sĩ, cũng như thưởng thức là nhu cầu của khán giả, thính giả, độc giả. Làm nghệ thuật và làm cho mình trở thành nổi tiếng hình như là hai vấn đề khác nhau. Tôi không nói rằng nó chẳng có ăn nhập gì với nhau, nhưng nhập chung chúng lại sẽ không tránh khỏi những ngộ nhận.  

Để làm cho mình nổi tiếng trong giới làm thơ, có người hầu như không cần làm thơ cũng có được điều đó. Ai? Hồ Chí Minh, ông ta có một bộ máy bồi bút tuyên truyền cho ông ta. Ông ta có một bộ máy giáo dục để tiêm nhiễm vào đầu óc của nhiều thế hệ trẻ Việt Nam tại quê nhà về cái chất “Thơ”, chất “Người” trong tập thơ Ngục Trung Nhật Ký. Gần đây giáo sư Lê Hữu Mục đã chứng minh là Hồ Chí Minh đã mạo nhận là tác giả của Nhật Ký Trong Tù, trong cuốn biên khảo “Hồ Chí Minh không phải là tác giả của Ngục Trung Nhật Ký”. Lấy thơ người khác nhận làm thơ mình, họ Hồ cũng nổi tiếng đấy chứ!

Hay đơn giản hơn, cứ như cựu phó thủ tướng Tố Hữu:


Stalin! Stalin
Yêu ông biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi: Stalin

Ở Việt Nam, Nhật Ký Trong Tù và những tập thơ vào Đảng bắt đầu với Từ Ấy của Tố Hữu, học sinh phải thuộc nằm lòng mới qua nổi những kỳ thi lên lớp mười hay tốt nghiệp trung học. Một số bạn bè tôi gặp ở trường đại học hôm nay có thể không thuộc nhiều thơ lắm, nhưng vẫn có thể đọc cho bạn nghe một vài bài thơ ấy. Đáng trách, đáng buồn, hay đáng thương?!

Rõ ràng là những người này cũng nổi tiếng chứ, cho dù là tiếng gì! Mặc dù là chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ họ có thể là một người cầm bút có tư cách cả. Theo tôi, trở thành người nổi tiếng trong giới văn nghệ cũng khó, nhưng làm một người cầm bút có tư cách có lẽ còn khó hơn nhiều. Bỡi có tư cách trong việc cầm bút không phải là một tước hiệu, và có lẽ không bao giờ là một tước hiệu cả. Một người cầm bút có tư cách trước hết phải sống thật với ngòi bút của mình, không vì một mục tiêu ngắn hạn, một lợi lộc bè phái, hay đơn giản hơn, vì muốn nổi tiếng, mà phải uốn éo, bẻ cong ngòi bút của mình. Gần nửa thế kỷ trước, Trần Dần đã viết:

Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu

Những vần thơ đó đơn giản nhưng trở thành bất hủ vì tư cách của người làm thơ. Nguyễn Chí Thiện là một ví dụ, xét về tiết tấu, vần điệu, thơ Nguyễn Chí Thiện không phải là một mẫu mực tối hảo. Điều này chính tác giả cũng đã công nhận:

Thơ của tôi không có gì là đẹp
Như cướp vồ, cùm kẹp, máu ho lao
Thơ của tôi không có gì là cao
Như chết chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của tôi là những gì kinh khủng
Như Đảng, Đoàn, lãnh tụ, trung ương
Thơ của tôi kém phần tưởng tượng
Nó thật như tù, đói, đau thương
Thơ của tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ

Thơ Nguyễn Chí Thiện nổi tiếng vì hoàn cảnh ra đời của nó, và trên hết trong một xã hội văn học chỉ thị, nhà thơ đã chấp nhận 27 năm tù cho một niềm tin được thể hiện trong thơ của mình.

Trở lại với vấn đề thơ tình, nhà thơ Xuân Diệu, có một thời đi học, trước mùa thi, không có thời gian làm thơ ông viết:

Thơ ta hơ hớ chưa chồng
Ta yêu muốn cưới mà không thì giờ!
Mùa thi sắp tới em thơ
Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau

Xuân Diệu xem thơ như một người yêu, một người tình. Không riêng gì Xuân Diệu, mà nhiều nhà văn, nhà thơ khác đã xem văn chương như một cái duyên, cái nghiệp, nghĩa là may mắn gặp, nhưng bỏ không được, rứt không ra. Nguyễn Bính trong bài Oan Nghiệt đã phải khuyên con gái:

Nhất kiêng đừng lấy chồng thi sĩ
Nghèo lắm con ơi! bạc lắm con!
Ở đây cha khóc mà thương nhớ
Đất Huế dầm mưa mấy tháng tròn...

Yêu thơ là đủ, trước Xuân Diệu và sau ông ta cũng có nhiều người làm thơ đặc biệt là thơ tình, hình như không ai vì muốn nổi tiếng mà làm thơ tình, hay vì muốn nổi tiếng mà tránh không làm thơ tình. Thơ, đặc biệt là thơ tình, giống như một người tình, một người tình rất đẹp, thông minh nhưng kiêu sa và khó tính vô cùng, mà cũng thủy chung không kém.

Nói thơ đẹp, tôi nghĩ sẽ không có nhiều người phản đối. Nhà thơ Tô Thùy Yên, thiếu tá trong quân đội cộng hòa, trở về sau 10 năm trong trại cải tạo của cộng sản đã viết về mẹ cha của mình như sau:

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều, một chẳng làm nên
Đời qua lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên

Và với người vợ thủy chung của mình, cái đẹp của thơ ông thể hiện trong cái nhìn thấu suốt nỗi khổ đau của người vợ suốt mười năm đăng đẳng chờ chồng, tôi đọc nhiều lần vẫn thấy xúc động:

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giạn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà, bụi chuối thức thâu đêm

Nói thơ như một người tình nhiều đòi hỏi, tôi chắc cũng không có nhiều người phản đối, bỡi thường một tác phẩm nổi danh ít nhất nó được kết hợp bỡi ba yếu tố: tài năng của người nghệ sĩ, tâm hồn, tư cách của người sáng tác, và hoàn cảnh đặc biệt mà tác giả đã trải qua. Không có nửa đời tù tội, chưa chắc chúng ta đã có Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện. Không có mười năm tủi nhục trong các trại cải tạo, chưa hẳn chúng ta đã có bài Ta Về bi tráng và hào hùng của Tô Thùy Yên.

Nói thơ như một người tình thông minh, khó tính bỡi vì thơ đối diện với sự thử thách của muôn triệu độc giả, đối diện với sự chứng nghiệm của thời gian. Người làm nghệ thuật không thể qua mắt tất cả những người thưởng thức bằng cách cóp nhặt văn tự, ngụy tạo cảm xúc, thêu dệt từ ngữ, hay dùng những từ ngữ đao to búa lớn không đúng chỗ, để tạo dựng cho mình một vị trí trong làng văn nghệ. Chưa có ai, và không bao giờ có ai làm được điều đó cả. Hãy đọc Nguyễn Bính với những từ ngữ dung dị, chơn chất như đồng ruộng, nhưng quả thật bất hủ:

Gái lớn, ai không phải lấy chồng
Can chi mà khóc, nín đi không!
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi! Các chị trông!

Để nói đến tâm tình của một bà mẹ, phải giả bộ cứng rắn, để cô con gái bớt buồn khi phải xa gia đình, nơi mà cô đã được cưu mang, không lớn, chia sẻ những hạnh phúc, cũng như khó nhọc ở một miền quê kham khổ. Nhưng thật ra lòng mẹ:

Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!
Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc
Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi

Tôi nghĩ thơ như một người tình, và một người tình thật sự không đòi hỏi sự diêm dúa, không cần sự tô điểm lòe loẹt, không cần kiểu cách huênh hoang. Một người tình thật sự không chấp nhận bị lợi dụng cho những mục tiêu xưng tụng, bè phái, hay những quyền lực mờ ám, ngay cả vì muốn nổi tiếng nhất thời. Một người yêu, một người tình, cần sự thành thật và thủy chung. Cứ yêu thơ đi, một cách cao thượng và thành thật ấy, bỡi thơ là một người tình, một tình yêu do chính người nghệ sĩ tạo thành. Bạn nhân hậu thì thơ bạn nhân hậu, bạn có tư cách thì thơ bạn có tư cách. Nếu chẳng hạn vì muốn được nổi tiếng, bạn quay lưng lại với những tình cảm của chính mình, thơ cũng sẽ quay lưng lại với bạn; bạn đã chấm dứt một duyên phận mà bạn đã may mắn có được với thơ vậy. Thơ sẽ đi biệt, và bạn chỉ còn lại những gì chắp vá, đứt gảy. Cho nên tôi nói làm thơ, và làm cho mình nổi tiếng là hai chuyện khác nhau là vậy.

Nguyên Đại
Tháng Chín, 1997