30 March 1996

QUYỀN BẦU CỬ

QUYỀN BẦU CỬ

SBS Radio
Diễn Đàn Sinh Viên
30 Tháng Ba, 1996

Kính thưa quý thính giả
Các bạn học sinh, sinh viên thân mến

Cách đây hơn một tháng, các bạn đã đi bầu để chọn lựa một chính quyền liên bang. Hôm nay, đối với các bạn ở tiểu bang Victoria, chúng ta sẽ đi bầu để chọn lựa một chính quyềng tiểu bang. Bài viết hôm nay xin được nói về đề tài bầu cử, và quyền hạn của người dân trong một quốc gia.

Ở Úc, nếu bạn là một công dân trên 18 tuổi, thì đi bầu là một công việc bắt buộc. Tuy nhiên, sẽ không có nhiều người miễn cưỡng thực thực thi quyền công dân này. Không có ai trong số họ cho đó là một công việc nặng nề hay không có ý nghĩa. Trước ngày bầu cử, các bạn đã nghe báo chí cũng như các đài truyền thanh, truyền hình bình luận về các chính sách, và khả năng thực hiện những chính sách đó của các đảng phái chính trị lớn nhỏ ở quốc gia này. Khi quyết định bầu cho đảng nào, các bạn cũng đã cân nhắc kỷ lưỡng xem đảng đó có đại diện cho quyền lợi của các bạn hay không. 

Một lá phiếu không làm nên lịch sử, nhưng sức mạnh tổng hợp của nhiều lá phiếu có thể quật ngã một chính phủ và thay bằng một chính phủ khác, mà chúng ta cho là tốt hơn. Nguyên tắc đơn giản đó đã giữ cho Úc đại lợi, cũng như nhiều quốc gia Tây phương khác có một cơ chế chính trị vững vàng qua nhiều năm. Kinh nghiệm lịch sử đã chứng tỏ rằng chỉ có nền kinh tế chính trị tư bản và dân chủ pháp trị mới có thể tạo nên những ổn định về chính trị, cũng như tạo được nhiều cơ hội nhất cho sự phát huy các giá trị tự do của công dân.

Chính cái điều đơn giản là cân nhắc, quyết định, đi bầu và tin tưởng sức mạnh tổng hợp của lá phiếu để xây dựng một chính phủ đại diện cho quyền lợi của đa số quốc dân, như chúng ta đã và đang làm hôm nay là một ước ao của hơn 70 triệu người Việt Nam ở quê nhà. Có quan điểm cho rằng: “...Vì sống quá lâu trong điều kiện dân chủ giả, nên dân ta có thói quen coi thường lá phiếu, không biết phải thực hiện quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình, coi đây là một thủ tục làm đại cho qua chuyện, bao năm bầu cử, ai lên mà chả thế...họ chẳng thấy trách nhiệm phải cân nhắc khi bỏ phiếu”.

Có lẽ một phần khác của câu chuyện phải được nói thêm là tiếp theo một cuộc chiến tranh khốc liệt là một thực tế chính trị độc tài của cộng sản. Chế độ đó đã ban phát quyền lợi cho một thiểu số cán bộ, đảng viên để nghiền nát mọi hoạt động chính trị tự do của đa số dân chúng. Chế độ đó đã phân rẽ dân chúng thành những mảnh nhỏ và làm tê liệt khả năng cộng tác của dân chúng đối với chính quyền. 

Nếu như trước đây trong thời chiến tranh, với chính sách mị dân, họ, những người cộng sản, có thể lôi kéo được một số quần chúng ủng hộ họ làm nên cái gọi là chiến thắng mùa xuân 75; thì ngày nay thực tế đã cho thấy là người dân đã không tin và sẽ không bao giờ tin vào những điều họ nói nữa. Bỡi cái công việc gọi là đấu tranh giai cấp, để xóa bỏ giai cấp thống trị bóc lột, thực chất đã tạo nên một giai cấp thống trị mới là hàng ngũ cán bộ đảng viên có quyền thế, với đầy đủ sự tàn ác và thủ đoạn, đoạt lấy tài sản của người dân tạo dựng sự phú quý và sang trọng của họ, thân nhân và gia đình của họ. 

Chính sách mị dân không thể nào lừa dối dân chúng mãi mãi được. Cho đến nay việc gì đến phải đến. Những người cán bộ, đảng viên đang có tiền, có quyền thì ra sức vơ vét của công lót đường về hưu, tranh ăn, xâu xé lẫn nhau. Dân chúng thì chật vật sống còn, những ai có thân nhân nước ngoài thì có chút ít cơ hội có thể xoay xở được. Những người dân quê cô thế, ít học, ít tiền là những người đau khổ nhất với lợi tức bình quân mỗi người không quá 150 đô la mỗi năm.

Trong tình trạng của một đất nước như thế. Một đất nước đang duy trì cái gọi là cơ chế chính trị dân chủ tập trung, thực chất là một trò lừa đảo tệ hại nhất, khi những người “được bầu”, xin để chữ được bầu trong ngoặc kép, đã được ban lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản dàn xếp trước. Nếu hành động được gọi là đúng của một công dân Úc, là cân nhắc quyết định của mình, để ủng hộ một chính phủ, qua lá phiếu, thì hành động của những người dân Việt Nam ở quê nhà coi lá phiếu của họ những mảnh giấy bỏ đi, không thể gọi là sai.

Số phận của đất nước Việt Nam phải chăng là một tất yếu lịch sử? Giai điệu buồn bã này, trong dòng nhạc lịch sử dân tộc chúng ta, chừng nào mới được chuyển sang một phiên khúc mới vui tươi hơn? Không phải tự nhiên mà nước Úc có một chế độ tự do dân chủ, một cơ chế chính trị tương đối ổn định. Thành quả đó không phải là công việc của bất cứ một tập đoàn nào, mà là sự tập hợp kiến tạo của toàn dân chúng Úc trong nhiều thập niên. Không phải tự nhiên mà chế độ dân chủ đa nguyên có mặt ở Việt Nam. Tự do dân chủ là một thực thể cần phải được góp sức để kiến tạo. Góp sức với ai? Góp sức như thế nào? Là những đề tài mà chúng ta mong đợi trong một số bài viết khác.

Thưa các bạn,
Hội nhập, học hành, tìm công ăn việc làm để khẳng định chỗ đứng trong xã hội mới là một công việc cần thiết, quan trọng, nhưng việc góp tiếng nói, góp sức mạnh để thay đổi thực trạng khổ đau của đồng bào của những người thân ở quê nhà là một việc làm có ý nghĩa. Tiếng nói ấy lương tri sẽ vang vọng trong tâm tư của những người trẻ hôm nay.

Thân ái chào các bạn
Kính chào quý thính giả.

Nguyên Đại
Đại Học Melbourne (Uni. of Melb.)
Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Việt Nam Úc Châu





16 March 1996

Ngày Tựu Trường

Ngày Tựu Trường

SBS Radio
Diễn Đàn Sinh Viên
16 Tháng Ba, 1996

Kính thưa quý thính giả
Các bạn học sinh, sinh viên thân mến

Hằng năm cứ vào độ cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường. Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy, nảy nở trong lòng tôi, như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đảng. Những ý tưởng ấy, tôi chưa lần nào ghi trên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi, và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè, núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã...” Đoạn văn trên nghe có vẻ quen quá, phải không quý vị và các bạn. Vâng, đó chính là đoạn mở đầu của truyện Tôi Đi Học trong tập truyện ngắn Quê Mẹ của nhà văn Thanh Tịnh. Tôi trích ra đây để mở đầu cho bài viết này, xin được nói về ngày tựu trường của những người trẻ Việt Nam.

Chắc chắn nhiều bạn trong số chúng ta có cái cảm giác vui vẻ, vì có thể trở lại trường, với không khí quen thuộc của mình từ nhiều năm, với nét mặt hăng hái, với những lời thăm hỏi của các thầy, các cô. Giờ cơm trưa ở một góc nhỏ, trong một khuôn viên Đại học nào đó, các bạn sẽ được họp mặt đông đủ. Những mẫu chuyện vui, trong những dịp hè sẽ được kể lại, có khi được thêm thắt, để trở nên hấp dẫn hơn. Có bạn may mắn được cha mẹ cho đi du lịch Âu Châu, Mỹ Châu sẽ kể cho nhiều người nghe về những thắng cảnh, những phong tục tập quán xứ người. Các bạn sẽ tặng nhau những món quà lạ, sẽ chia sẻ cho nhau những món ăn đặc sản, những hình chụp về những thắng cảnh ở những chân trời xa, nơi mà các bạn có dịp đi qua. 

Một số bạn khác, sau những ngày hè tranh thủ làm việc thêm ở các hãng xưởng, cũng thở phào nhẹ nhỏm, vì đã tạm biệt được với những công việc mà các bạn không mấy thích thú lắm, để trở lại học đường, với những bộ quần áo đẹp hơn, nó làm cho các bạn trẻ trung hơn, yêu đời hơn. Chúng ta cũng không quên kể rằng, chúng ta hơi khó chịu, khi không còn được thoải mái đi chơi khuya và ngủ muộn nữa. Thay vào đó, chúng ta phải bắt đầu thức đêm để hoàn thành bài vở của mình. Tuy nhiên, dẫu sao đi nữa, thì chúng ta đã có những ngày hè yên bình, và trước mắt là một năm học mới để cố gắng, để miệt mài và đạt được những kết quả như mình mong muốn.

Năm học ở Việt nam thường được bắt đầu vào giữa tháng Chín, khi mà những cơn gió của mùa hè nhiệt đới oi ả qua đi, nhường lại cho cái không khí se se lạnh của mùa thu. Khi mà những hàng cây phượng vĩ hai bên con đường đến trường sắp sửa rụng những bông hoa cuối cùng, để bắt đầu trổ lá. Những chú ve sầu cũng ngưng, không ca hát nữa, nhường lại không gian cho những đàn bướm tung tăng trên những nẻo đường đi học. Đó là những nam nữ học sinh, trong những bộ đồng phục trinh trắng, với những nụ cười rạng rỡ, vui vẻ, vì có thể gặp lại nhiều bạn bè, được chạy nhảy nô đùa dưới bóng mát của những tàng cây trong sân trường, được lắng nghe tiếng đọc bài ê-a nhịp theo tiếng thước kẻ của các thầy cô giáo gõ xuống mặt bàn gỗ. Bụi phấn lại bay bay ca hát: “Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi, có hạt bụi nào rơi trên bục giảng, có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy...”

Mùa tựu trường xứ Việt có lẽ êm đềm, thơ mộng và tuyệt vời lắm, nếu không có tiếng đại bác nổ ran từ các mặt trận vọng về, trong những năm chiến tranh. Nếu không có cái thông báo rằng, cộng quân vừa pháo kích vào trường tiểu học Cai lậy, giết hàng ngàn trẻ em ngây thơ vô tội, tuổi không quá mười ba, vào tháng 10 năm 1974. Ngày đầu năm học sẽ vui lắm, nếu không có cái tin buồn bã, rằng, một cô bạn gái dễ thương phải nghỉ học, để đi làm phụ thêm với mẹ, vì ba của cô còn ở trong trại cải tạo, sau 1975. Ngày này sẽ dễ thương lắm, nếu không có nỗi đau, khi hay tin thằng bạn học rất thân năm trước, đã chết mất xác trên chiến trường Cambodia, khi nó bị buộc phải theo các đơn vị bộ đội cộng sản Việt Nam đi làm cái gọi là “nghĩa vụ quốc tế vô sản”. Mùa khai giảng quê mình bây giờ có thể sẽ tươi vui lắm, nếu đằng sau những lũy tre làng im lìm kia, không có những em bé gầy gò, quần áo dơ dáy, lếch thếch mệt mỏi lê bước đến trường sau một giấc ngủ mệt nhọc. Em sẽ vui lắm, nếu em biết rằng sau buổi học này, em sẽ được nghỉ ngơi, để ồn ào với bạn bè, để thưởng thức một cốc kem, thay vì phải gồng gánh những công việc nhà nông, vượt quá sức lực của em, cho việc tăng thêm thu nhập gia đình.

Niên khóa 1996 của các học sinh ở các trại tỵ nạn; hay cứ cho là niên khóa 1996 ở các trại tỵ nạn Đông Nam Á, cũng đã bắt đầu bằng sự việc Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc ngưng trợ cấp cho các trường trung-tiểu học ở đây, trước khi họ rút đi hoàn toàn vào tháng 7 năm nay. Mùa tựu trường năm nay sẽ đến với các em không phải bằng những nô nức sau những tháng ngày xa thầy cô, xa bạn bè. Các em không có cả một bông hoa, cho dù tàn tạ, của một cành phượng vĩ, không có cả một tiếng kêu, cho dù nức nỡ của một chú ve sầu, đừng nói chi một bộ quần áo tươm tất, một cốc kem lạnh ít tiền. Các em sẽ đón một năm học mới ở đó, dưới cái nắng chói chang trong những lớp hàng rào bùng nhùng dây kẻm gai, được đóng chốt bằng những tháp canh nhọn hoắc. Những tháp canh xé nát bầu trời thơ dại. Các em sẽ đón một niên khóa nơi đây, trong những cơn đói vì chính sách dùng những băng đảng du côn để cai trị trong các trại giam thuyền nhân của các chính quyền sở tại.

Các em sẽ la hét, không phải vì nô đùa cùng bè bạn, mà vì không chịu nổi khói lựu đạn cay, vì khiếp đảm, sợ hãi từng đoàn lính đông đảo, đeo mặt nạ phòng hơi độc, mang súng, dùi cui, vòi rồng tiến vào sân trại. Các em có thể sẽ ngất xỉu bên cạnh cha mẹ của các em. Những người gầy ốm, đen đúa, bị đánh đập, bị điểm huyệt, bị bắt ngồi giữa nắng, hai tay đưa lên đầu, trước khi đi thành hàng một, giữa hai hàng lính khổng lồ. Những người lính này không ngần ngại giáng những đòn đánh bằng dùi cui xuống lưng, xuống đầu của bất kỳ thuyền nhân nào không phục tùng mệnh lệnh của họ. Những tổ chức nhân danh nhân đạo đã quay lưng với các em. Các em sẽ trở về nơi mà cha mẹ các em đã liều chết để trốn đi. Cánh diều hy vọng của các em, của bạn bè chúng ta ở đó đã đứt rồi. Xác diều tơi tả, như ước mơ của các em, đã nát trong cơn lốc định mệnh. Một định mệnh đau đớn lắm!

Các bạn thân mến,
Chúng ta đã có một cuộc chiến tranh dài 21 năm, 1954-1975. Chúng ta cũng đã có một cuộc ra đi dài 21 năm, 1975-1996. Tuổi trẻ Việt Nam cũng đã có 21 lần tựu trường trên xứ người. Chúng ta học được những điều gì? Chúng ta đã học được từ những thất bại cay đắng của chúng ta, rằng, không có ai, ngoài chúng ta, thực sự quan tâm đến đất nước chúng ta. Chúng ta cảm nhận sâu sắc rằng, dù thế nào đi nữa, thì chúng ta cũng có một tổ quốc, một quê hương để hướng về, như người Do Thái hướng về Isarel, nơi mà, rốt cuộc họ có thể ngẫng cao đầu để làm người chiến sĩ, sau hơn 2000 năm lang bạt khắp mọi nơi trên thế giới. Chúng ta cũng đã học được những kiến thức về khoa học, kỷ thuật ở những đất nước văn minh, phát triển. Chúng ta cũng học được những cách thức để vận hành một chính thể dân chủ, biết chấp nhận đối lập, nhưng cũng biết tôn trọng luật lệ, để bảo đảm quyền lợi của quốc gia được ưu tiên trên hết.

Tuy nhiên, có lẽ còn nhiều điều mà chúng ta chưa học được, trong đó, có sự đoàn kết để cùng nhau phụng sự cho một mục tiêu chung. Trong đó, có sự nhận chân bộ mặt thật của chế độ cộng sản Việt Nam, để cùng thống nhất với nhau rằng, cái gọi là “hòa hợp, hòa giải” không phải là những tờ giấy, mà người ta sẳn sàng ký, và cũng sẳn sàng xóa bỏ ngay sau đó, cũng không phải là những hứa hẹn, mà sau đó người ta lập tức nuốt lời. Sự hòa hợp, hòa giải, chỉ có thể có trên căn bản của một xã hội dân chủ thật sự, một cơ chế pháp trị có hiệu quả và có hiệu lực, trên toàn đất nước. Chúng ta sẽ tiếp tục tựu trường, sẽ tiếp tục học nữa. Chúng ta hiểu rằng tương lai của dân tộc chúng ta, vận mệnh của tổ quốc chúng ta, tùy thuộc rất nhiều ở sự học tập, và biết đoàn kết của tất cả những người trẻ Việt Nam hôm nay.

Thân ái chào các bạn
Kính chào quý thính giả.

Nguyên Đại
Đại Học Melbourne (Uni. of Melb.)
Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Việt Nam Úc Châu





24 February 1996

Vua Quang Trung


Hôm qua là mùng Năm Tết. Hương sắc của mùa xuân như vẫn còn lan tỏa trong không gian đâu đây, theo những tiếng cười, tiếng reo hò ồn ào trong ngày hội chợ Tết, theo những xác pháo cuốn bay trong gió trên những con đường thành phố. Trong chúng ta, chắc hẳn, cũng chưa tan cái mùi vị của những bánh mứt mà chúng ta thường dùng trong ngày đầu năm. Nhân dịp Tết Nguyên Đán, ban phát thanh Tổng Hội Sinh Viên Liên Bang Úc Châu kính gởi đến quý thính giả lời chúc mừng cho một năm mới an khang và hạnh phúc. Đối với các bạn, sinh viên và học sinh, có lẽ chúng ta phải chuẩn bị cho một năm mới là vừa, thân chúc các bạn một năm học thành công mỹ mãn.

Hằng năm, cứ vào ngày  này, mùng Năm tháng Giêng âm lịch, thanh niên nam nữ ở các tỉnh miền Trung Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên đổ xô về thăm một di tích lịch sử ở huyện An Khê, Bình Định. Đó là viện bảo tàng Quang Trung. Cuộc đi thăm viếng này đã trở thành một truyền thống, nó nhắc nhở người dân Việt nhớ đến một chiến thắng lịch sử vang dội- chiến thắng Đống Đa – xảy rả vào ngày mùng Năm Tết, năm Kỷ Dậu, 1789. Ngày ấy đã đi vào lịch sử cùng với tên tuổi của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. Một vị tướng lãnh xuất sắc, một nhà chính trị kiệt xuất. Một vì vua anh minh và lỗi lạc của chúng ta.

Theo Việt Sử Tân Biên, của Phạm Văn Sơn, vua Quang Trung tên thật là Nguyễn Quang Bình, sau đổi thành Nguyễn Huệ, sinh năm 1753. Ông bắt đầu cầm quân từ năm 1771, lúc vừa được 18 tuổi. Lúc này Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Từ sông Danh trở ra Bắc, thuộc quyền của Chúa Trịnh. Từ sông Danh trở vào Nam nằm dưới sự kiểm soát của Chúa Nguyễn. Sau khi quân Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ nhận làm quân tiên phong của Chúa Trịnh ở phía Bắc, phá tan lực lượng của Chúa Nguyễn ở phía Nam. Sách sử chép rằng: Lúc nguy hiểm, Nguyễn Huệ tỏ ra bình tĩnh hơn ai hết, gặp những khó khăn, những sự việc làm người ta bở vía, kinh hồn thì ông lại thường nảy ra nhiều mưu kế lợi hại, tỏ ra một khối óc thông minh linh hoạt phi thường.

Năm 1784, vua nước Xiêm-La, nơi mà phần lớn đất đai thuộc Thái Lan bây giờ, đã đưa 20 ngàn quân sang Việt Nam để giúp Nguyễn Ánh đánh phá khu vực phía nam nước ta. Nguyễn Huệ đã đem quân phục kích ở Rạch Gầm, Xoài Mút đánh tan tác quân Xiêm, ổn định trong một thời gian dài miền nam của tổ quốc. Hai năm sau, Nguyễn Huệ tiến quân ra bắc như vũ bão, các mặt trận của chúa Trịnh liên tiếp bị phá vỡ. Năm 1786, Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long, tức là Hà Nội bây giờ, trong sự hoan hô của muôn dân đối với một vị tướng lĩnh, người đã chấm dứt cuộc chiến tranh liên miên kéo dài gần nửa thế kỷ giữa hai lực lượng Trịnh, Nguyễn.

Miền Bắc vừa tạm ổn định trong chưa đầy hai năm, thì năm 1788, triều đình nhà Thanh ở Trung quốc, mượn tiếng là giúp vua Lê Chiêu Thống, đã đem 200 ngàn quân đánh chiếm Thăng Long. Được tin cấp báo từ núi Tam Điệp, Bắc Bình Vương  Nguyễn Huệ, bấy giờ đang ở Phú Xuân – tức là thành phố Huế bây giờ, đã lên ngôi, đổi niên hiệu là Quang Trung để thống nhất lòng dân. Sau đó, nhà vua đem quân thần tốc trực chỉ đến núi Tam Điệp. Ngày 20 tháng Chạp năm ấy, trước toàn quân, Vua nói bằng giọng cương quyết, sang sảng: “Chỉ nội mười ngày nữa, ta sẽ đuổi hết giặc Thanh. Bữa nay ta ăn Tết Nguyên Đán trước. Sang xuân ta sẽ ăn Tết Khai Hạ vào ngày mùng 7 ở Thăng Long”.

Quân Tây Sơn vượt bến đò Gián-Khuất, mở đầu cuộc tiến công nhắm vào các đơn vị quân Thanh vào ngày 30 Tết. Đồn giặc ở Nam Định, Hà Đông liên tục bị hạ. Mùng Ba Tết – Trận Hà Hồi, quân Tây Sơn dùng kế chiếm đồn không tốn một mũi tên, hòn đạn. Đoàn quân chiến thắng của ta reo hò tiến thẳng đến Thăng Long. Mùng Năm Tết, kịch chiến ở Ngọc Hồi, quân ta toàn thắng, liên tiếp theo đó, các tiền đồn của giặc quanh khu vực Thăng Long lần lượt bị thất thủ. Các tướng giặc là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thương Duy Thặng chết tại trận. Một cánh quân Tây Sơn khác vây kín đồn Khương Thượng. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống chống đỡ không nổi phải trốn ra một cái gò, thắt cổ trên một cành đa tự tử, gò này sau gọi là gò Đống Đa. Chủ tướng giặc là Tôn Sĩ Nghị vừa được tin cấp báo là các tiền đồn tiền phương của hắn đã bị hạ, thì đã thấy quân Tây Sơn ầm ầm tiến vào năm cửa thành, khí thế như triều dâng, sấm động. Y hết sức bất ngờ, đến nỗi ngựa không kịp thắng yên cương, người không kịp mặc áo giáp, đem theo vài tên lính thân cận vượt cầu phao trên sông Nhị Hà tất tả chạy về Trung Quốc. Quân giặc cuống cuồng, hổn loạn, chạy theo chủ tướng, cầu phao sập đổ, kêu khóc vang cả một góc trời, thây giặc chết làm tắt cả dòng nước trên sông.

Khoảng 4 giờ chiều ngày mùng Năm Tết, tức là cũng vào ngày này, năm 1789, vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi đã hùng dũng, oai phong tiến vào đại bản doanh của quân Thanh đóng ở Thăng Long, như lời hẹn từ hôm 20 tháng Chạp. Vua Quang Trung, người anh hùng dân tộc của chúng ta đã tiến lên khán đài chiến thắng với chiếc áo bào xạm đen và nghi ngút thuốc súng, trong tiếng reo hò vang dội của hàng vạn quân và dân nước Việt. Hình ảnh kiêu hùng đó mãi mãi là niềm tự hào của bao thế hệ trẻ Việt Nam.

Thế là, chỉ trong 7 ngày chiến đấu thần dũng vua Quang Trung đã tiêu diệt được 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, tạo nên một chiến công oanh liệt vào bậc nhất trong các chiến công lớn lao của các danh tướng từ cổ chí kim của nước ta.

Thưa các bạn,

Lịch sử dựng nước và giữ nước 4000 năm của chúng ta, từ vua Hùng, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, đến Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung là những trang sử chói lọi từ những chiến công oai hùng như thế đó. Dân tộc ta đã khẳng định với nhân loại rằng, chúng ta là một dân tộc thông minh, dũng mạnh. Không ai có thể phủ nhận được điều đó.

Nhưng tại sao một dân tộc hào hùng như thế, bây giờ vẫn còn đang chịu đựng sự nghèo nàn và lạc hậu? Tại sao nhiều thế hệ liên tiếp của một dân tộc như thế lại bị đẩy vào một cuộc chiến tranh tương tàn hai mươi mốt năm từ sau hiệp định Gienève 1954? Tại sao một chính nghĩa dân chủ mà chúng ta đã có từ thời Nguyễn Trãi:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Lại bị một thứ chủ nghĩa ngoại lai, không tưởng, phi nhân đẩy ra khỏi đất nước, trôi giạt mọi nơi trên địa cầu này. Tại sao nhiều người trẻ Việt Nam lại bị đẩy xuống biển Đông và rồi sống thoi thóp những ngày cuối cùng, quẩn bách, đau đớn trong trại tỵ nạn.

Tại sao, cho đến hôm nay, trước thềm của thế kỷ 21, bóng ma của chủ nghĩa cộng sản ngoại lai ấy vẫn còn cứ ám ảnh, và bám víu vào vận mệnh của dân tộc chúng ta. Tại sao? Tại sao? Và tại sao chúng ta lại trở nên như vậy?

Câu trả lời là của tất cả chúng ta. Của tất cả mọi người Việt Nam còn gọi được hai tiếng “Mẹ ơi!” và nói rằng: Vâng, thưa Mẹ, chúng con vẫn còn đây, với tuổi trẻ thật nhiều cố gắng, với tất cả tấm lòng hướng về Mẹ yêu thương. Từ cõi thâm sâu trong trái tim chúng ta, chúng ta sẽ cùng đáp như thế với người Mẹ Việt Nam, tổ quốc muôn đời của chúng ta.

Thân ái chào các bạn,
Kính chào quý thính giả.

Nguyên Đại
Melbourne, Úc Châu
24 Tháng Hai 1996

SBS Radio
Chương Trình Phát Thanh của
Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Việt Nam Úc Châu