03 December 2007

Phạm Lãi

Broadcasted
3CR Radio, AM 855
Melbourne
3/12/2007

Chuyện Xưa
Phạm Lãi- Mưu lược gia biết tự rút lui đúng lúc


Đọc truyện Trung Quốc ngày xưa, không ai không biết hoăc nghe đến một người con gái tên là Tây Thi và chuyện tình của nàng với một anh hùng thời đó tên là Phạm Lãi.


Vào cuối đời Xuân Thu, Trung quốc chia thành nhiều nước nhỏ, trong số đó có nước Việt, đây chỉ là sự trùng hợp, nước Việt thời này không phải là Việt Nam hiện nay. Phạm Lãi là giữ chức Đại Phu của nước Việt thời đó. Khi vua của nước Ngô, một vương quốc khác ở phía bắc nước Việt, đem quân đến Cối Kê, thủ đô của nước Việt, thấy thế của quân Ngô mãnh liệt quá, ông khuyên nên nghị hoà, rồi tìm cách đối phó. Việt Vương Câu Tiễn không nghe, đem quân nghênh chiến, kết quả bị thất bại. Phù Sai bắt vua nước Việt là Câu Tiễn đem về nước để làm con tin. Phạm Lãi đi theo Câu Tiễn và chịu nhiều gian khổ.


Lúc ở nước Ngô, ông giúp cho Câu Tiễn thoát khỏi nhiều rủi ro có thể bị vua Ngô giết chết. Sau đó ông và Việt Vương Câu Tiễn được thả về nước. Ông và một đại thần khác là Văn Chủng, đã đề xuất nhiều mưu lược nhằm chữa trị vết thương chiến tranh, phát triển sản xuất, làm cho nước Việt ngày càng giàu mạnh và cuối cùng đã giúp Việt Vương tiêu diệt nước Ngô.


Trong khi cả nước vui mừng trước sự thắng lợi thì ông không màng chi danh lợi, mạnh dạn tự rút lui sau khi sự nghiệp đã thành công. Ông từ bỏ quan trường, tới nước Tề để lo việc buôn bán, và trở thành Đào Châu Công giàu có bậc nhất ở đó. Sự tích Phạm Lãi được lưu truyền, và ông trở thành người tiêu biểu về mặt biết tự rút lui đúng lúc, và được mọi người từ xưa đến nay khen ngợi. Sau đây là một vài mẫu chuyện thú vị về con người trác tuyệt này.


Sau khi bị bắt về nước Ngô, làm công việc giữ chuồng ngựa rất cực khổ. Một hôm Phù Sai đi săn, cố ý gọi Câu Tiễn đi bộ dẫn ngựa để lấy đó làm sự oai phong cho mình. Ngựa chạy rất nhanh, nên Câu Tiễn phải chạy lúp xúp theo, mệt đến độ mồ hôi vả ra như tắm, trông dáng điệu hết sức thiểu não. Người dân nước Ngô thấy vậy tỏ giọng khinh bỏ.

Tối lại, khi trở về căn nhà đá, Câu Tiễn tức tối nói với Phạm Lãi.
- Ta xấu hổ với tổ tiên nước Việt. Ta không xứng đáng là con cháu của vua Đại Vũ. Ta...ta hết sức nhục nhã, không còn mặt mũi nào nhìn thấy ai ! Ta không muốn sống nữa !.

Phạm Lãi rót cho Câu Tiễn một chén trà nóng, và chờ cho ông ta lắng dịu trở lại mới lên tiếng khuyên:
- Biết nhục đã là một thái độ gần với thái độ dũng cảm rồi ! Đại Vương cần phải nghiến răng chịu đựng tiếp. Xưa kia Châu Văn Vương bị vua Trụ nhà Ân Thương bắt giam ở Dũ Lý, và giết người con trai của ông ấy là Bá Ấp Khảo, rồi lấy thịt làm thức ăn đưa tới cho Văn Vương. Văn Vương cắn răng chịu đựng, im lặng ăn thịt con mình. Tất cả những sự chịu đựng đó đều nhằm để phục thù sau này. Do vậy mà về sau, Châu Văn Vương đã chuyển bại thành thắng, tiêu diệt được Trụ Vương, và xây dựng được triều đình nhà Châu hưng thịnh và trở thành một minh quân.


Câu Tiễn nghe những lời khuyên đó lại cắn răng chịu đựng tiếp tục sống những ngày nhục nhã.


Phù Sai nghe danh Phạm Lãi đã lâu, muốn chiêu hàng ông ta về với mình, một hôm ông triệu Câu Tiễn và Phạm Lãi triều kiến. Ông nói với Phạm Lãi:
- Quả nhân nghe nói, một cô gái thông minh thì không bao giờ chịu lấy một ông chông có gia thế lụn bại, suy sụp. Một người đàn ông tài năng thì không bao giờ chịu làm bề tôi cho một ông vua mất nước. Nay Câu Tiễn vô đạo, trên thực tế nước Việt đã mất rồi, thế tại sao ông còn bằng lòng chịu làm tù binh cùng với ông ta mà không cảm thấy đau buồn hay sao? Nếu ông bằng lòng bỏ Việt về với Ngô, phụng sự cho một vị minh chủ khác, thì quả nhân nhất định sẽ trọng dụng ông. Đấy là một dịp để cho ông được thăng quan tấn tước. Vậy không rõ ý định ông như thế nào?


Phạm Lãi chững chạc đáp:
- Bẩm Ngô Vương bệ hạ, thần nghe nói, một bề tôi vong quốc thì không thể bàn chuyện chính sự với ai cả. Một tướng quân bại trận, thì không thể nói chuyện dũng cảm với người nào. Thần nay là một đại thần của nước Việt, không tài không đức, không trung không tín, nên mới không thể phụ tá cho Việt Vương, không khuyên ông ấy giữ tình hoà hiếu với thượng quốc, mà chỉ biết dùng binh lực để giao tranh, nên mới đắc tội với bệ hạ như thế này. Đấy chính là cái tội của tiểu thần ở tại một hạ quốc. Bệ hạ không giết thần chính là đã ban ơn đức cho thần rồi, vậy thần nào dám có hy vọng chi cao hơn nữa.

Ngô Phù Sai giả vờ tức giận nói:
- Ông không nghe lời ta, không sợ ta giết hay sao?

Phạm Lãi ung dung đáp:
- Tiểu thần không sợ, vì nếu được như vậy thì chính là Đại Vương đã giúp đỡ cho tiểu thần đấy !

Ngô Phù Sai trợn mắt có ý khó hiểu hỏi:
- Giúp cho ông điều gì?

Phạm Lãi mỉm cười, nói:
- Giúp cho tiểu thần trở thành một đại trung thần, oai vũ không thể khuất phục, bần tiện không thể đổi dời
Phù Sai không nói được gì nữa, ra lệnh cho Câu Tiễn và Phạm Lãi tiếp tục trở về căn nhà đá để nuôi ngựa.


Ngũ Tử Tư, một đại tướng công thần của Phù Sai khuyên Phù Sai nên giết Câu Tiễn để trừ hậu hoạn, không nên lập lại chuyện vua Kiệt tha Thành Thang, vua Trụ tha Châu Văn Vương mà mất nước sau này. Phạm Lãi hiến kế cho Câu Tiễn nếm phân Phù Sai. Sau đó Phù Sai đã tha cho Câu Tiễn, phu nhân và Phạm Lãi về nước.

Việt Vương sau khi về cung, không bao giờ dám nghĩ đến một cuộc sống an nhàn hưởng lạc. Với sự phù trợ của Phạm Lãi và Văn Chủng, nhà vua lúc nào cũng chiêu hiền đãi sĩ, kính mến người già, thương yêu con trẻ, lo đẩy mạnh việc sản xuất và phát triển quân đội. Sau bốn năm, nhà vua đã có ý định đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi và Văn Chủng ngăn lại khuyên phải tìm cách làm hủ hoá nội bộ của kẻ thù, làm tiêu ma ý chí của họ, làm tổn hao tài lực, vật lực của họ, rồi chờ một thời cơ thuận tiện.

Họ dọ biết Phù Sai đang lo xây cất cung điện để có thể có cuộc sống xa hoa, nhưng bị Ngũ Tử Tư cản ngăn. Việt Vương bèn sai người vào rừng tìm gổ quý để dâng lên cho Phù Sai. Văn Chủng lại nói:
- Phù Sai rất háo sắc, Đại Vương nên phái người kiếm người đẹp đem dâng lên cho Phù Sai như vậy một mặt làm cho hắn tin vào lòng trung thành của chúng ta, mặc khác làm tiêu ma ý chí của Ngô Vương.


Công việc chọn lựa mỹ nữ được triển khai khắp toàn quốc. Nước Việt chọn được hai mươi mỹ nữ, đứng đầu là người đẹp Tây Thi, kế đến là Trịnh Đán. Câu Tiễn ra lệnh cho nhạc sư cung đình dạy cho các mỹ nữ múa hát rồi mới để cho Phạm Lãi dẫn đi đến hiến cho Ngô Quốc.


Ngũ Tử Tư biết chuyện can với Phù Sa rằng: Tâu Đại Vương, thần nghe rằng, nhà Hạ bị mất nước là do Muội Hỉ, nhà Ân mất nước là do Đắc Kỷ, nhà Châu mất nước là do Bao Tự. Mỹ nữ chính là những cô gái đẹp dẫn đến tai họa mất nước. Vậy ngài không thể tuyển họ vào cung được.

Ngô Phù Sai đang cao hứng nên đâu chịu nghe lời của Ngũ Tử Tư, bèn nói rằng: Khổng tử từng nói: Ăn, uống, nam, nữ đó là những điều ham muốn lớn của con người. Háo sắc là thiên tính của đàn ông. Ta là một quốc vương hậu cung đã có hàng nghìn người đẹp, vậy thêm hai cô gái đẹp nữa thì có can gì. Phù Sai đặc biệt sủng ái Tây Thi và Trịnh Đán, nhưng sau đó Trịnh Đán bị bệnh qua đời.

Phù Sai nghe lời Tây Thi sau đó phát động mấy triệu dân phu cho đào một con kênh nối liền Trường Giang với Hoàng Hà, và đánh nhau nhiều trận với nước Lỗ và nước Tề. Ngũ Tử Tư can Phù Sai không được, sau đó lại bị Phù Sai nghi ngờ phản loạn buộc ông phải tự sát. Trước khi chết Ngũ Tử Tư, tức Ngũ Viên trối lại rằng: Hãy đem đầu ta treo lên thành lầu ở phía Nam để ta được tận mắt thấy quân Việt vào thành.


Mất Ngũ Tử Tư, Phù Sai như tự chặt một cánh tay của mình, nhân lúc Phù Sai đi tận Trung Nguyên để dự cuộc họp ở Hoàng Trì, tranh địa vị minh chủ chư hầu với nước Tấn. Phạm Lãi chỉ huy đại quân đánh Ngô. Phù Sai nhận được hung tin, vội vã kéo quân về ứng chiến nhưng lại bị quân Việt đánh cho đại bại. Phù Sai sau đó cầu hoà, Việt Vương Câu Tiễn có ý muốn đánh thẳng vào thành Cô Tô, nhưng Phạm Lãi can lại rằng: Quân lực của Ngô Quốc tuy vậy vẫn còn hùng hậu, nếu tiếp tục đánh thì hai bên đều bị tổn thất nặng, chi bằng rút quân, chờ đợi cơ hội tốt hơn. Câu Tiễn nghe theo.


Sau khi hai nước nghị hoà, Phù Sai vẫn tiếp tục đam mê nữ sắc, xây dựng thêm nhiều cung điện đặc biệt một toà lộng lẫy cho Tây Thi, khiến cho quốc khố trống rỗng. Thiên tai lại đến trong nhiều năm, bá tánh không sống được, tiếng than dậy đất trời. Phạm Lãi nói:
- Cơ hội đã đến rồi, xin Đại Vương dốc hết binh lực toàn quốc, tiến đánh nước Ngô để tiêu diệt họ.


Tháng ba, năm công nguyên 476, Việt Vương sai Phạm Lãi chỉ huy hữu quân, Văn Chủng chỉ huy tả quân, còn mình thì lãnh đạo trung quân, tiến đánh Ngô Quốc. Phù Sai đại bại, tự sát. Trước khi chết ông ta cho người lấy ba lớp vải bịt kín mắt mình lại, bảo là để sau khi chết, không thể nhìn thấy đại tướng trung thành là Ngũ Tử Tư ở chín suối.


Sau khi tiêu diệt được nước Ngô, Câu Tiễn còn đang say đắm trong niềm vui thắng lợi chưa kịp ban thưởng cho công thần, thì một hôm, Phạm Lãi vào yết kiến Câu Tiễn nói:
- Trong sách cổ có nói, chúa bị nhục thì bề tôi phải chết. Trước đây Đại Vương bị nhục tại Cối Kê, nhưng thần không chết, là muốn giữ lại cái mạng của mình để tìm cách báo thù cho Đại Vương. Nay Ngô Quốc đã diệt, Phù Sai đã chết, nếu Đại Vương tha tội chết cho thần, và bằng lòng để cho thần trở về giang hồ quy ẩn, sống một cuộc đời nhàn tản như mây bay trên trời, như con hạc tự do ngoài đồng nội, thì không còn gì vui sướng hơn.


Câu Tiễn cố giữ Phạm Lãi ở lại, nhưng Phạm Lãi nhất quyết ra đi. Câu Tiễn dọa giết cả nhà của Phạm Lãi. Phạm Lãi đáp: Chết sống đều có số mệnh, phú qúy là do trời. Mọi việc đều do Đại Vương quyết định, còn vi thần thì nhất định ra đi.


Phạm Lãi sau đó đã mất tích một cách khó hiểu. Câu Tiễn tiếc lắm, sai người dùng vàng đúc một pho tượng Phạm Lãi dựng tại triều đình để kỷ niệm dài lâu.


Văn Chủng cũng nhận được một bức thư của Phạm Lãi, trong thư nói: “Sau khi cáo cầy đã chết, thì chó săn cũng bị giết theo. Khi nước địch đã bị đánh bại thì mưu thần cũng sẽ bị tiêu diệt. Việt Vương là người cổ cao, miệng nhọn, chỉ có thể cùng nhau chịu hoạn nạn, chứ không thể cùng hưởng phú quý. Nếu ngài không bỏ đi thì chắc chắn sẽ gặp tại họa”.

Văn Chủng cho rằng bức thư đã nói quá sự thật, ông tin Câu Tiễn không bao giờ giết chết một công thần như ông. Nhưng, sau đó không lâu, Câu Tiễn do sợ Văn Chủng là người có công to, sẽ uy hiếp đến địa vị của nhà vua, nên đã tìm cớ buộc Văn Chủng phải tự sát.

Có người nói ông lái đò trên Thái Hồ đã thấy một giai nhân tuyệt thế xuất hiện trong khoang thuyền của mình, không ai khác hơn là Tây Thi cùng với một công thần tiêu diệt nhà Ngô mà tiếng tăm trong đời ai ai cũng biết. Người ta nói : Phạm Lãi dẫn Tây Thi theo đường Thái Hồ vào biển Đông để đến nước Tề, đổi tên là Xi Di Tử Tịch và làm thương nhân, ông trở nên một người giàu có. Vua Tề nghe tin, mang ấn Tể Tướng đến mời ông ra làm quan. Ông chia tài sản cho người nghèo rồi treo quả ấn lên tại chỗ, ra đi đến đất Đào để định cư, lấy biệt hiệu là Đào Chu Công. Ông lại làm thương nhân và trở lại trở thành một cự phú. Nghe đâu thành tựu mà ông có cũng nhờ sự hiệp lực của một giai nhân khuynh nước khuynh thành, Tây Thi.



Theo "Những mẫu chuyện lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc: Mười Đại Mưu Lược Gia Trung Quốc" - Chủ Biên: Tang Du, Dịch Giả: Phong Đảo.


Chuyện nay
Cựu Thủ Tướng John Howard và các Đại Công Thần

Hôm thứ Bảy 1/12/2007, cựu nữ ký giả McKew đã tuyên bố chiến thắng tại đơn vị bầu cử Bennelong, Bắc Sydney. Phải mất một tuần sau ngày bầu cử bà McKew mới có thể công bố chiến thắng nói trên; mặc dù ông Howard trong đêm bầu cử hôm thứ bảy 24/11/07 đã nói trước là ông có thể mất luôn chiếc ghế ở đơn vị này.

Tưởng cũng cần nhắc lại đây là một trong những đơn vị an toàn nhất của Đảng Tự Do, kể từ ngày đơn vị này được thành lập vào năm 1949, Đảng Tự do luôn luôn nắm chắc chiếc ghể ở đơn vị này. Bà McKew được bổ nhiệm làm Bí Thư Quốc Hội, đây là một chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị dân chủ Úc Đại Lợi.

Với thất bại này ông Howard là vị người thứ hai, là thủ tướng đang cầm quyền bị mất chiếc ghế dân biểu trong kỳ bầu cử, người thứ nhất trong lịch sử nước Úc là Stanley Melbourne Bruce vào năm 1929.

Tuần qua bố vợ của ông Peter Costello đã nói với báo chí rằng ông Howard là một người vị kỷ vì đã không nhường chức vụ thủ tướng cho ông Costello như đã thoả thuận, và vì vậy hủy diệt tương lai của một con người tài hoa như con rể của ông. Ông cựu tổng trưởng ngân khố cũng nói rằng Đảng Tự Do có thể có cơ hội tốt hơn nếu, ông Howard chịu rút lui trong nhiệm kỳ vừa rồi. Đảng Tự Do đã không tạo điều kiện cho ông Tổng Trưởng, khi ông ta sẳn sàng, còn bây giờ thì ông đã rút lui về hàng ghế sau. Ông nói rằng ông không muốn quanh quẩn để cản đường các thế hệ mới, các tài năng mới trong đảng.

Ông cựu Tổng Trưởng Y Tế Tony Abbots, cũng quyết định không ra tranh chức lãnh tụ khối đảng Tự Do đối lập; và ông cựu Tổng Trưởng Di Trú, tác giả của chính sách giam giữ người tỵ nạn tại các đảo quốc Thái Bình Dương, cũng tuyên bố rắng ông sẽ không phục vụ ở hàng ghế trước nhưng sẳn sàng cố vấn cho thế hệ lãnh đạo mới của Đảng Tự Do.

Báo chí cũng nói đến một thoả thuận ngầm của hai ông cựu thủ tướng và cựu tổng trưởng ngân khố rằng, nếu giành được chính quyền từ tay của Đảng Lao Động vào năm 1996, thì ông Howard sẽ làm thủ tướng một nhiệm kỳ thôi, sau đó sẽ trao quyền lãnh đạo lại cho ông Costello, nhưng thoả thuận đó đã không xảy ra, và giấc mơ làm thủ tướng nước Úc của ông Costello cứ thể mà mờ mịt theo thời gian. Người ta cũng lấy làm ngạc nhiên vì theo như ông Costello thi ông Howard chưa bao giờ mời vợ chồng ông đến ăn tối chung ở dinh Thủ Tướng the Lodge cả.

Thưở khó khăn, Phạm Lãi đã giúp cho Câu Tiễn đánh bại nước Ngô, nhưng sau đó biết Câu Tiễn là người hẹp hòi, có thể chung hoạn nạn được nhưng không thể chia sẻ phú quý, nên sau khi Câu Tiễn nắm đại quyền, Phạm Lãi đã rút lui, giữ được tiếng thơm lưu danh sử sách. Văn Chủng không nghe lời Phạm Lãi nên sau đó đã bị Câu Tiễn giết.

Ông Howard có rút lui đúng lúc, ở lúc mà ông ở tột đỉnh của sự vinh quang vị thủ tướng nắm quyền lâu nhất trong lịch sử nước Úc cho tới hiện nay không? Xin hãy để lịch sự làm công việc thẩm định của nó, và qúy vị sẽ có ý kiến của riêng mình.

Ông Costello có phải là một đại công thần trong triều đại của John Howard hay không, có lẽ chính ông Howard và các đồng viện của ông mới có câu trả lời chính xác nhất, và việc ông gần như rút lui khỏi các vị trí lãnh đạo của Đảng Tự Do có thể xem như một sự rút lui chính trị thật sự hay không, xin hãy để lịch sử làm công việc phán xét của nó.

Trong câu chuyện hôm nay, không thấy ông Howard hay ông Kevin Rudd mê nữ sắc gì cả, hai ông khi tranh cử cũng như khi thất cử đều cảm ơn phu nhân, và gia đình mình. Ngày xưa có nhiều hậu cung mới oai; còn thời nay, phải chứng minh sự chung thủy mới ổn (thấy cũng hơi tội nghiệp có các ông chính trị gia!!!). Mặc dù ông Kevin Rudd có bị bắt gặp đi xem vũ sexy một lần, nhưng uy tín không có gì suy suyễn mà hình như còn gia tăng, tương tự như trường hợp của Tổng Thống Mỹ Bill Clinton, sau vụ Monica Lewinsky.

Mặc dù không có Tây Thi, nhưng ông Kevin Rudd có ít nhất là hai nữ đồng viện đã xuất sắc giúp đỡ ông và Đảng Lao Động trong kỳ bầu cử này. Người thứ nhất phải nói đến là Phó Nữ Thủ Tướng đầu tiên trong lịch sử nước Úc bà Julia Gillard (xin đừng nhầm với Julia Roberts, một nữ tài tử gạo cội của Holywood, Hoa Kỳ), người đã giúp cho ông Rudd trong việc tranh quyền lãnh đạo với ông Kim Beasley, một chính trị gia nặng ký, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, của Đảng Lao Động, và ông Rudd đã nhắc đến bà với những lời lẽ hết sức thân tình trong đêm thắng cử 24/11 vừa qua.

Người thứ hai, như đã nói ở trên là cựu ký giả McKew, người đã cho ông John Howard mất luôn chiếc ghế an toàn nhất của Đảng Tự Do, và đẩy ông cựu Thủ Tướng vào lịch sử cùng với ông Bruce, mất luôn chiếc ghế của mình trong nhiệm kỳ làm thủ tướng của mình. Các vị Tây Thi ngày nay cũng kinh khủng không kém gì Tây Thi của hơn 1500 năm về trước !!!


Nguyên Đại
03-Tháng 12, 2007


http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=mM8v1TEKm9

No comments: