24 February 1996

Vua Quang Trung


Hôm qua là mùng Năm Tết. Hương sắc của mùa xuân như vẫn còn lan tỏa trong không gian đâu đây, theo những tiếng cười, tiếng reo hò ồn ào trong ngày hội chợ Tết, theo những xác pháo cuốn bay trong gió trên những con đường thành phố. Trong chúng ta, chắc hẳn, cũng chưa tan cái mùi vị của những bánh mứt mà chúng ta thường dùng trong ngày đầu năm. Nhân dịp Tết Nguyên Đán, ban phát thanh Tổng Hội Sinh Viên Liên Bang Úc Châu kính gởi đến quý thính giả lời chúc mừng cho một năm mới an khang và hạnh phúc. Đối với các bạn, sinh viên và học sinh, có lẽ chúng ta phải chuẩn bị cho một năm mới là vừa, thân chúc các bạn một năm học thành công mỹ mãn.

Hằng năm, cứ vào ngày  này, mùng Năm tháng Giêng âm lịch, thanh niên nam nữ ở các tỉnh miền Trung Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi, Phú Yên đổ xô về thăm một di tích lịch sử ở huyện An Khê, Bình Định. Đó là viện bảo tàng Quang Trung. Cuộc đi thăm viếng này đã trở thành một truyền thống, nó nhắc nhở người dân Việt nhớ đến một chiến thắng lịch sử vang dội- chiến thắng Đống Đa – xảy rả vào ngày mùng Năm Tết, năm Kỷ Dậu, 1789. Ngày ấy đã đi vào lịch sử cùng với tên tuổi của anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. Một vị tướng lãnh xuất sắc, một nhà chính trị kiệt xuất. Một vì vua anh minh và lỗi lạc của chúng ta.

Theo Việt Sử Tân Biên, của Phạm Văn Sơn, vua Quang Trung tên thật là Nguyễn Quang Bình, sau đổi thành Nguyễn Huệ, sinh năm 1753. Ông bắt đầu cầm quân từ năm 1771, lúc vừa được 18 tuổi. Lúc này Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Từ sông Danh trở ra Bắc, thuộc quyền của Chúa Trịnh. Từ sông Danh trở vào Nam nằm dưới sự kiểm soát của Chúa Nguyễn. Sau khi quân Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Huệ nhận làm quân tiên phong của Chúa Trịnh ở phía Bắc, phá tan lực lượng của Chúa Nguyễn ở phía Nam. Sách sử chép rằng: Lúc nguy hiểm, Nguyễn Huệ tỏ ra bình tĩnh hơn ai hết, gặp những khó khăn, những sự việc làm người ta bở vía, kinh hồn thì ông lại thường nảy ra nhiều mưu kế lợi hại, tỏ ra một khối óc thông minh linh hoạt phi thường.

Năm 1784, vua nước Xiêm-La, nơi mà phần lớn đất đai thuộc Thái Lan bây giờ, đã đưa 20 ngàn quân sang Việt Nam để giúp Nguyễn Ánh đánh phá khu vực phía nam nước ta. Nguyễn Huệ đã đem quân phục kích ở Rạch Gầm, Xoài Mút đánh tan tác quân Xiêm, ổn định trong một thời gian dài miền nam của tổ quốc. Hai năm sau, Nguyễn Huệ tiến quân ra bắc như vũ bão, các mặt trận của chúa Trịnh liên tiếp bị phá vỡ. Năm 1786, Nguyễn Huệ tiến vào Thăng Long, tức là Hà Nội bây giờ, trong sự hoan hô của muôn dân đối với một vị tướng lĩnh, người đã chấm dứt cuộc chiến tranh liên miên kéo dài gần nửa thế kỷ giữa hai lực lượng Trịnh, Nguyễn.

Miền Bắc vừa tạm ổn định trong chưa đầy hai năm, thì năm 1788, triều đình nhà Thanh ở Trung quốc, mượn tiếng là giúp vua Lê Chiêu Thống, đã đem 200 ngàn quân đánh chiếm Thăng Long. Được tin cấp báo từ núi Tam Điệp, Bắc Bình Vương  Nguyễn Huệ, bấy giờ đang ở Phú Xuân – tức là thành phố Huế bây giờ, đã lên ngôi, đổi niên hiệu là Quang Trung để thống nhất lòng dân. Sau đó, nhà vua đem quân thần tốc trực chỉ đến núi Tam Điệp. Ngày 20 tháng Chạp năm ấy, trước toàn quân, Vua nói bằng giọng cương quyết, sang sảng: “Chỉ nội mười ngày nữa, ta sẽ đuổi hết giặc Thanh. Bữa nay ta ăn Tết Nguyên Đán trước. Sang xuân ta sẽ ăn Tết Khai Hạ vào ngày mùng 7 ở Thăng Long”.

Quân Tây Sơn vượt bến đò Gián-Khuất, mở đầu cuộc tiến công nhắm vào các đơn vị quân Thanh vào ngày 30 Tết. Đồn giặc ở Nam Định, Hà Đông liên tục bị hạ. Mùng Ba Tết – Trận Hà Hồi, quân Tây Sơn dùng kế chiếm đồn không tốn một mũi tên, hòn đạn. Đoàn quân chiến thắng của ta reo hò tiến thẳng đến Thăng Long. Mùng Năm Tết, kịch chiến ở Ngọc Hồi, quân ta toàn thắng, liên tiếp theo đó, các tiền đồn của giặc quanh khu vực Thăng Long lần lượt bị thất thủ. Các tướng giặc là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thương Duy Thặng chết tại trận. Một cánh quân Tây Sơn khác vây kín đồn Khương Thượng. Tướng giặc là Sầm Nghi Đống chống đỡ không nổi phải trốn ra một cái gò, thắt cổ trên một cành đa tự tử, gò này sau gọi là gò Đống Đa. Chủ tướng giặc là Tôn Sĩ Nghị vừa được tin cấp báo là các tiền đồn tiền phương của hắn đã bị hạ, thì đã thấy quân Tây Sơn ầm ầm tiến vào năm cửa thành, khí thế như triều dâng, sấm động. Y hết sức bất ngờ, đến nỗi ngựa không kịp thắng yên cương, người không kịp mặc áo giáp, đem theo vài tên lính thân cận vượt cầu phao trên sông Nhị Hà tất tả chạy về Trung Quốc. Quân giặc cuống cuồng, hổn loạn, chạy theo chủ tướng, cầu phao sập đổ, kêu khóc vang cả một góc trời, thây giặc chết làm tắt cả dòng nước trên sông.

Khoảng 4 giờ chiều ngày mùng Năm Tết, tức là cũng vào ngày này, năm 1789, vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi đã hùng dũng, oai phong tiến vào đại bản doanh của quân Thanh đóng ở Thăng Long, như lời hẹn từ hôm 20 tháng Chạp. Vua Quang Trung, người anh hùng dân tộc của chúng ta đã tiến lên khán đài chiến thắng với chiếc áo bào xạm đen và nghi ngút thuốc súng, trong tiếng reo hò vang dội của hàng vạn quân và dân nước Việt. Hình ảnh kiêu hùng đó mãi mãi là niềm tự hào của bao thế hệ trẻ Việt Nam.

Thế là, chỉ trong 7 ngày chiến đấu thần dũng vua Quang Trung đã tiêu diệt được 200 ngàn quân Thanh mau như chớp nhoáng, tạo nên một chiến công oanh liệt vào bậc nhất trong các chiến công lớn lao của các danh tướng từ cổ chí kim của nước ta.

Thưa các bạn,

Lịch sử dựng nước và giữ nước 4000 năm của chúng ta, từ vua Hùng, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, đến Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung là những trang sử chói lọi từ những chiến công oai hùng như thế đó. Dân tộc ta đã khẳng định với nhân loại rằng, chúng ta là một dân tộc thông minh, dũng mạnh. Không ai có thể phủ nhận được điều đó.

Nhưng tại sao một dân tộc hào hùng như thế, bây giờ vẫn còn đang chịu đựng sự nghèo nàn và lạc hậu? Tại sao nhiều thế hệ liên tiếp của một dân tộc như thế lại bị đẩy vào một cuộc chiến tranh tương tàn hai mươi mốt năm từ sau hiệp định Gienève 1954? Tại sao một chính nghĩa dân chủ mà chúng ta đã có từ thời Nguyễn Trãi:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Lại bị một thứ chủ nghĩa ngoại lai, không tưởng, phi nhân đẩy ra khỏi đất nước, trôi giạt mọi nơi trên địa cầu này. Tại sao nhiều người trẻ Việt Nam lại bị đẩy xuống biển Đông và rồi sống thoi thóp những ngày cuối cùng, quẩn bách, đau đớn trong trại tỵ nạn.

Tại sao, cho đến hôm nay, trước thềm của thế kỷ 21, bóng ma của chủ nghĩa cộng sản ngoại lai ấy vẫn còn cứ ám ảnh, và bám víu vào vận mệnh của dân tộc chúng ta. Tại sao? Tại sao? Và tại sao chúng ta lại trở nên như vậy?

Câu trả lời là của tất cả chúng ta. Của tất cả mọi người Việt Nam còn gọi được hai tiếng “Mẹ ơi!” và nói rằng: Vâng, thưa Mẹ, chúng con vẫn còn đây, với tuổi trẻ thật nhiều cố gắng, với tất cả tấm lòng hướng về Mẹ yêu thương. Từ cõi thâm sâu trong trái tim chúng ta, chúng ta sẽ cùng đáp như thế với người Mẹ Việt Nam, tổ quốc muôn đời của chúng ta.

Thân ái chào các bạn,
Kính chào quý thính giả.

Nguyên Đại
Melbourne, Úc Châu
24 Tháng Hai 1996

SBS Radio
Chương Trình Phát Thanh của
Tổng Hội Sinh Viên Học Sinh Việt Nam Úc Châu




No comments: